New Brunswick có nền kinh tế dựa trên tài nguyên phụ thuộc phần lớn vào lâm nghiệp, khai thác và đánh bắt cá. Du lịch, nông nghiệp, ngành sản xuất quy mô nhỏ và ngành dịch vụ đang phát triển mang lại sự cân bằng và đa dạng kinh tế cho tỉnh bang này. Sự tăng trưởng kinh tế trên thực tế có xu hướng ở mức hoặc trên mức trung bình của khu vực các tỉnh Đại Tây Dương, phản ánh sự mở rộng kinh tế trong ngành lọc dầu, viễn thông, phát triển phần mềm máy tính và phân phối khí tự nhiên.
Nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt cá
Khoảng một phần năm diện tích đất của tỉnh bang New Brunswick là phù hợp cho nông nghiệp, và một phần ba trong số đó đang được canh tác. Những vũng đất bị lũ lụt, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ vùng đất của tỉnh, nơi sở hữu những vùng đất màu mỡ nhất. Các khu vực này thích hợp cho nghề làm vườn, trồng hoa quả, tập trung gần các thành phố phía nam, đáng chú ý là ở bên dưới thung lũng sông St. John. Các trang trại theo mô hình gia đình với quy mô nhỏ vẫn là phổ biến nhất trong số khoảng 3,000 trang trại của tỉnh bang New Brunswick. Các trang trại lớn nhất chuyên về các loại cây trồng hàng đầu như các sản phẩm sữa và khoai tây, trước đây tập trung ở khu vực nam trung bộ và đông nam và sau này ở phía trên thung lũng St. John. Gia cầm, gia súc, lợn, trứng, sản phẩm từ lá phong và quả việt quất đại diện cho các mặt hàng quan trọng khác. Chính sách của tỉnh tập trung vào bảo tồn đất và phát triển sản phẩm mới.
Khoảng bốn phần năm diện tích đất của tỉnh là rừng và ngành lâm nghiệp là ngành lớn nhất của tỉnh bang New Brunswick. Sản xuất bột giấy và giấy đại diện cho ngành công nghiệp thành phần đơn lớn nhất của tỉnh; một số thành phố và thị trấn, chủ yếu ở phía bắc, phụ thuộc vào các nhà máy giấy và bột giấy lớn. Máy cưa cũng phổ biến rộng rãi và các sản phẩm lâm nghiệp khác bao gồm gỗ, ván ép, ván dăm, nhiên liệu và cây Giáng sinh. Các khu rừng cũng cung cấp một loạt các công việc trong các lĩnh vực liên quan. Khoảng một nửa diện tích đất rừng thuộc phạm vi công cộng, mặc dù người dùng doanh nghiệp lớn chịu trách nhiệm trồng lại rừng và quản lý các huyện được giao.
Ngành công nghiệp đánh bắt và chế biến cá tiếp tục quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh bang New Brunswick. Nó chiếm 1 số lượng lớn người lao động như nhiều công nhân trong các khu vực đánh cá chính, bao gồm Vịnh Fundy, Eo biển Northumberland và Vịnh St. Lawrence. Tôm hùm, cua, sò điệp, cá trích, cá tuyết, cá thu và một loạt các loài ở Bắc Đại Tây Dương khác chiếm phần lớn sản lượng đánh bắt. Ngành công nghiệp này là một sự biến động, tùy thuộc vào sự thay đổi theo mùa và dài hạn trong nguồn cá, cạnh tranh nước ngoài, điều kiện thời tiết và tín dụng; do đó nó đã trở nên phụ thuộc rất nhiều vào quy định và hỗ trợ của chính phủ. Sự phát triển của nuôi trồng thủy sản đã bổ sung cho các ngư trường sản xuất giống sản xuất cá hồi, cá hồi, trai và hàu.
Nguồn tài nguyên và năng lượng
Trữ lượng kẽm và kali giàu có được phát hiện tại New Brunswick về trong nửa sau của thế kỷ 20 đã nâng cao tầm quan trọng của việc khai thác trong nền kinh tế tỉnh bang. Phía đông bắc, đặc biệt là xung quanh Bathurst, sản xuất rêu kẽm, đồng, chì, bạc và than bùn. Một hoạt động nấu chảy chì là tại Belledune, một cảng gần Bathurst, và kali và khí tự nhiên được tìm thấy gần Sussex. Trên toàn quốc, tỉnh này xếp hạng cao trong sản xuất antimon, bismuth, kali, than bùn, kẽm, bạc và chì. Than, thạch cao và lưu huỳnh cũng rất đáng kể. Các tiện ích năng lượng điện thuộc sở hữu của tỉnh mở rộng mạnh mẽ phát điện trong thế kỷ 20. Sự phát triển thủy điện dọc theo hệ thống sông St. John đã được bổ sung bởi các đơn vị sản xuất hơi nước đốt than và dầu và bằng cách xây dựng một nhà máy điện hạt nhân tại Point Lepreau, phía tây nam Saint John. Một mạng lưới điện liên kết tiện ích New Brunswick với tất cả các tỉnh lân cận và Hoa Kỳ và cho phép xuất khẩu công suất vượt mức. Một đường ống khí đốt tự nhiên, mang khí đốt ngoài khơi đến New England, cũng đi qua tỉnh.
Sản xuất
Phần lớn các ngành công nghiệp sản xuất ở New Brunswick sản xuất các sản phẩm thực phẩm, giấy và các sản phẩm gỗ. Các công ty cũng sản xuất hàng kim loại, sản phẩm khoáng sản và máy móc. Một số công ty phần mềm máy tính nhỏ cũng hoạt động ở một số thành phố của tỉnh bang New Brunswick. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, cả giá trị của hàng hóa sản xuất và khối lượng sản xuất đều tăng đáng kể. Nhà máy lọc dầu lớn nhất Canada, đặt tại Saint John, đã trải qua sự tăng trưởng chưa từng thấy để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên khắp Bắc Mỹ.
Dịch vụ, lao động và thuế
Vào đầu thế kỷ 21, ngành dịch vụ đã sử dụng số người nhiều hơn gấp ba lần so với các nhà sản xuất. Du lịch là một ngành dịch vụ hàng đầu, vì các điểm du lịch tự nhiên và văn hóa của tỉnh, bao gồm nhiều ổ đĩa đẹp như tranh vẽ, thu hút nhiều du khách. Hệ thống điện thoại tiên tiến của tỉnh và lực lượng lao động song ngữ đã thu hút một ngành tiếp thị qua điện thoại với các trung tâm cuộc gọi ở một số thị trấn và thành phố. Ngoài ra, chính phủ liên bang, thông qua hoạt động của Hội đồng nghiên cứu quốc gia, đã khuyến khích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin ở New Brunswick.
Tỉnh có được phần lớn doanh thu từ các loại thuế khác nhau. Chúng bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp và cá nhân, thuế vốn, thuế doanh thu giá trị gia tăng, thuế bất động sản, thuế xăng dầu và nhiên liệu, và thuế thuốc lá. Ngân sách tỉnh cũng phụ thuộc vào trợ cấp cân bằng liên bang và các khoản thanh toán chuyển khoản liên bang khác. Các chương trình này hỗ trợ việc cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, như trong giao thông vận tải và nghiên cứu, và đã đóng góp đáng kể vào việc phát triển các tiện nghi và dịch vụ cập nhật tương đương với các dịch vụ được tìm thấy ở Canada.
Giao thông vận tải viễn thông
Tại Saint John, một cảng biển hiện đại và trung tâm công nghiệp lớn nhất tỉnh, lọc dầu, đóng tàu và làm giấy là những công ty lớn. Các cơ sở cảng thành phố có thể điều khiển tàu container và chúng đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hóa của Canada, đặc biệt là trong những tháng mùa đông khi giao thông trên St. Lawrence Seaway bị hạn chế. Moncton và Saint John vẫn là trung tâm giao thông vận tải lớn mặc dù tầm quan trọng của đường sắt giảm, và Moncton đã nổi lên như một trung tâm phân phối khu vực quan trọng. Các hãng hàng không khu vực và quốc gia cung cấp dịch vụ thường xuyên cho tất cả các thành phố lớn hơn và dịch vụ xe buýt liên kết hầu hết các trung tâm đô thị. Đường cao tốc đi lại liên kết New Brunswick và các tỉnh hàng hải khác với miền trung Canada và Hoa Kỳ. Cầu Liên bang dài 8 dặm (13 km) nối New Brunswick với Đảo Hoàng tử Edward.
New Brunswick sở hữu một cơ sở hạ tầng viễn thông tiên tiến về mặt kỹ thuật. Dịch vụ truyền hình cáp và vệ tinh, dịch vụ điện thoại không dây và truy cập Internet đều có sẵn rộng rãi. Ngoài ra, tất cả các trường công đều có quyền truy cập Internet.
(Theo New Brunswick website)